Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010

MẦU NHIỆM


  Cháy nhà. Đấy là tai họa mà không ai muốn gặp phải. Đã cháy nhà , lại còn bị nước lụt nữa thì hết nói.
Thứ Bảy tuần rồi, vì công việc tôi phải ra ngòai lúc 8 giờ sáng. Khởi hành đã có triệu chứng bất tường: cái cản sau của xe moto tự dưng sút ốc kéo lê lết trên đường đi tới chỗ hẹn gặp partners. Người đi đường trố mắt ngạc nhiên, còn tôi thì không biết gì mãi cho tới nơi. Tôi nhặt mấy sợi dây nylon cột sơ nó lại. Rồi đối tác thứ hai trục trặc đến muộn những 1 tiếng đồng hồ. Tôi cảm thấy sốt ruột và lo lắng không hiểu vì sao, và nhiều lần đề nghị dời cuộc gặp sang ngày hôm sau, nhưng anh đối tác thứ nhất không chịu. Mãi đến 9h30 chúng tôi mới có thể đi đến Nagarkot sau khi đón thêm anh chàng luật sư của công ty. Chúng tôi đi đến Training Center để gặp Hiệu trưởng trường Luật của Nepal, người đang chủ trì một seminar quốc tế tại đó, để tham vấn về một vấn đề luật cho công ty của chúng tôi.
   30km đường đèo dốc để đến Nagarkot, một địa điểm nghỉ dưỡng nổi tiếng của Nepal tương tự như Đà Lạt của miền Nam Việt Nam. Chừng 10h thì điện thọai của tôi bắt đầu bị gọi liên tục với những số máy lạ hoắc. Nghĩ rằng đó là của những kẻ đang đe dọa tống tiền tôi vì một thương vụ chúng tôi đang tiến hành với Chính phủ Nepal, tôi lờ đi không bắt máy.
  Đến được Nagarkot lúc 11h thì vị hiệu trưởng kia không thể sắp xếp thời giờ cho chúng tôi được, thế là phải về không. Cả nhóm sau khi về đến Kathmandu thì lại ghé vào một nhà hàng Fast Food . Mãi đến 15h tôi mới bứt ra được để về nhà. Nhưng hỡi ôi.
   Từ xa đã thấy đồ đạc bị vứt chồng đống ra ngòai sân thượng. Ngừng xe thì hàng xóm chạy lại  nói rằng, “Phòng mày cháy rồi!” Tôi lao lên cầu thang. Apartment  của tôi thì tường ám khói đen kịt, sàn ngập ngụa nước là nước. Hàng xóm kể rằng chừng 10h họ thấy khói bốc lên dữ dội từ phòng tôi mà cửa lại khóa nên phá cửa kiếng  và dùng nước tạt vào để dập lửa. Do khói mù mịt không thấy gì nên họ tạt bừa vào rất nhiều nước . Khi lửa tắt thì phá khóa cửa chính và mang ra ngoài mọi thứ. Nhiều người gọi điện cho tôi nhưng tôi không bắt máy (lỗi của tôi, nhưng lúc đó có bắt máy thì mọi chuyện cũng đã rồi).
  Tivi, dàn loa,MP4, microwave,gargets, giường ngủ, mùng mền, quần áo… bị cháy rụi. Máy in màu đời mới kiêm scanner, bị vô nước thấy mà thương. Tuy nhiên mấy thứ đó có thể mua lại được. Sốc nhất là hàng trăm cuốn sách và vài ngàn trang tư liệu bản gốc hoặc photocopy đã bị thiệt hại không cứu chữa được. Tôi đã rất vất vả và tốn kém rất nhiều mới có thể sưu tập được chúng suốt 5 năm qua, từ những hiệu sách cũ, các thư viện lớn và nổi tiếng của Nepal. Có những độc bản viết tay cổ kính, những bản in đã 200-300 năm, có bản photocopy thì giờ không biết nguồn gốc ở đâu để sao chụp lại, thậm chí những sách quý của thư viện quốc gia 4-5 năm trước tôi sao chụp giờ cũng đã bị ăn cắp mất khỏi thư viện rồi. Khối tài liệu khổng lồ về văn hóa và phong tục Nepal sưu tập từ các họa báo trong ngòai Nepal hoặc sách ảnh thì cũng hư hỏng 80% vì lửa và nước. May mà không hiểu vì lý do gì tôi mang theo cái laptop 500GB ổ cứng đã sao lưu dữ liệu gần kín và ổ cứng gắn ngòai cũng chật cứng thêm 500GB tư liệu.
  Theo nhận định của riêng tôi, điện chập mạch và bén lửa vào tấm mền bông, giường ngủ, rồi lan sang mấy thùng carton đựng tài liệu tôi đặt bên dưới  giường ngủ. Cũng may, lửa chưa kịp bén đến mấy chục lít xăng tôi trữ trong phòng (Nepal hay thiếu hụt xăng dầu có khi cả tuần, nên tôi phải trữ xăng để phòng bị) và cái bình gas 15kg. Nếu chúng nổ thì chắc tôi phải tù vì cả tòa nhà sập và có thể có thiệt hại nhân mạng nữa.
  Thọat tiên tôi không nhận thấy nó. Sốc mà. Nhưng ngờ ngợ một cái gì không bình thường trong phòng ngủ của tôi.
   Phải đến ngày hôm sau tôi mới phát hiện ra nó. Điều mầu nhiệm.
  Phật Đản 2010, tôi đã có một triển lãm tranh Phật ngay tại vườn Lumbini (xem “Một Phật Đản không thể nào quên” ngay trong blog này hoặc từ các trang mạng Phật giáo . Trong đó bức đỉnh nhất cũng là chủ đề của cuộc triển lãm là “Ligh of Asia” và bức tôi ưng ý thứ hai là “Quan Thế Âm” theo phong cách Tây tạng trên nền thần chú Om Mani Padme Hum. Tôi đã giữ lại hai bức tranh đó và treo ngay bên trên giường ngủ của tôi. Lửa cháy bắt đầu từ đấy và mạnh bạo nhất cũng từ đấy mà hai bức tranh thì “vô nhiễm”. Bức tranh nhỏ bên cạnh bị cháy rụi mà bức “Quan Thế Âm" chỉ ám có chút xíu khói. Bức “Light of Asia” thì mặc dù cái microwave ngay bên dưới cháy đen thế mà không hề có tý lửa khói nào chạm đến (nhìn dấu vết trên tường thì cảm thấy như có một sức mạnh siêu nhiên đẩy tạt ngọn lửa đi).
   Một chị bạn bác sĩ người Nepal khi nhìn cảnh tượng đó đã thốt lên: “Không thể tưởng tượng được điều đó khi chúng ta ở vào thế kỷ 21. Nhưng giờ thì tôi ‘TIN’.”
  Tôi không có lời để giải thích. Mời các bạn xem hình.






Nguyễn Phú 20/11/2010 Kathmandu

Thứ Năm, 21 tháng 10, 2010

LUMBINI – MÙA SẾU VỀ LÀM TỔ

 





Thu đã về ở Lumbini. Mỗi buổi sáng ở đây tôi lại được đánh thức bởi bản hoà tấu của các lòai chim. Thoạt tiên văng vẳng từ xa đến gần là tiếng gọi giông giống như “Đến đây bái Phật - Đến đây bái Phật” (chim “bắt cô trói cột” của vùng rừng miền Đông Nam bộ). Rồi đến tiếng solo thanh thoát của những chú chim chìa vôi trên nền trầm của tiếng gáy cu cườm. Rồi không gian vỡ oà bởi cơ man nào tiếng của muôn chim.
Ngoài kia, những cánh đồng lúa xanh mướt mênh mông bát ngát kéo dài đến tận chân trời được viền bởi bóng tím sẫm của dãy Terai. Bồng bềnh bên trên dãy núi ấy là những chỏm tuyết trắng của Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Và trùm lên tất cả là bầu trời xanh ngăn ngắt không một bóng mây. Không khí tinh khiết đến mức có thể nghe được sương đêm thoang thoảng bay lên trong nắng sớm khi mấy con nai vàng dẫm khẽ khàng lên những lá cỏ như sợ làm phiền buổi tọa thiền sáng sớm của những bậc chân tu. Nắng lấp lánh trên mình nai, chúng đưa đôi mắt nâu to dịu dàng nhìn bóng những ngôi chùa thấp thoáng qua rặng cây rồi lặng lẽ đi vào khu đồng cỏ.
Đồng cỏ với những khoảng nước ngập sau mùa mưa, gió chờn vờn trên những chùm hoa cỏ trắng xoá. Nơi đây Thu cũng đã kịp gọi sếu về làm tổ.  




Đôi sếu đang tìm về tổ cũ

Người ta thường nghĩ rằng gọi loài chim Sarus Crane này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là “hạc” thì sang hơn, tôn quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt, còn sếu là từ thuần Việt. Chưa chắc “hạc” đã hơn “sếu”, mà nói đúng ra, “sếu” còn tôn quý hơn, xưa hơn và chính xác hơn “hạc” .Tên “sarus” xuất xứ từ “sarasa” của Sanskrit nghĩa là “loài chim ở hồ”.  Từ “sarasa” này vay mượn từ ngữ căn “sar” của hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga chủ nhân đầu tiên của Lục Địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: “sếu” (theo hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ “hạc” có lẽ đến vài ngàn năm.    
Một số sách lịch sử Phật giáo khi phiên dịch ra tiếng Việt từ nguồn Hán tạng có kể câu chuyện Đức Phật Thích Ca và chim thiên nga. Theo đó thì khi còn là một thiếu niên, một hôm trong vườn ngự uyển, hoàng tử Siddartha bắt gặp một con thiên nga bị thương bởi một mũi tên của Devadatta. Siddartha nhổ mũi tên ra và cứu chữa cho chú chim tôi nghiệp. Nhưng Devadatta khi phát hiện được đã lên tiếng đòi con chim do mình bắn được. Cả hai không ai chịu ai và đi đến tranh cãi gay gắt. Theo truyền thống dân chủ cộng hòa của gia tộc Sakya, vụ việc được đưa ra Mote Hall ( Nhà hội nghị, như Quốc hội ngày nay) cho cả hai trình bày lý lẽ của mình và để toàn bộ các thành viên nam của gia tộc phán quyết. Siddartha đã được quyền giữ chú chim kia khi lý luận rằng “Sinh mạng con chim thuộc về người cứu nó chứ không phải về kẻ tước đoạt nó!”




Hình chim sếu trên trụ đá Asoka ở Niglihawa – quê hương của Đức Phật Kanaka Muni, gần kinh thành Kapilavastu

Theo học giả Hemraj Shakya, người tinh thông các ngôn ngữ cổ như Brahmi, Sanskrit, Pali – cây đại thụ uy tín trong giới nghiên cứu về lịch sử và văn hoá cổ đại của Ấn độ và Nepal, thiên nga hoặc ngỗng trời ở vùng này không có, mà con chim trong câu chuyện trên chính là chim sếu, một loài chim đặc hữu của quê hương Đức Phật Thích ca. Theo các nhà khoa học, loài sếu này phân bố khắp miền Bắc Ấn; tuy nhiên ở Nepal chúng chỉ sinh sống ở Kapilavastu (quê cha của Đức Phật) và khu vực xung quanh Lumbini. Vùng này ngoài Đức Phật Thích Ca còn là quê hương của hai vị Phật trong quá khứ là Kanaka Muni và Krakuchanan, cả hai nơi đều được Đại Đế Asoka dựng cột đá đánh dấu. Không phải ngẫu nhiên mà chim sếu được khắc trên trụ đá ở Niglihawa, theo khám phá của riêng tôi, đây là trụ đá Asoka duy nhất được khắc hình ảnh động vật-một cách thức tôn vinh loài chim thiêng ở quê hương các Đức Phật của Asoka. Chính xác thay các kinh sách cổ khi nói rằng chim sếu tụ hôi nơi có thánh nhân.



Tác giả trong một chuyến đi thực địa khảo sát về chim khắp Nepal


Nepal là một thiên đường cho chim và những người yêu quý chim muông. Xứ sở này có khoảng 900 chủng loại chim, chiếm 8% chủng loại chim của thế giới. Chín chủng loại được đưa vào danh sách bảo tồn của Chính phủ Nepal bao gồm sếu, cò trắng, và cò nâu. Xứ này có luật bất thành văn rằng mọi người phải yêu quý muông thú không giết hoặc ăn thịt chim hoang dã, mà thật ra cũng không cần luật vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người và được nhắc nhở giáo dục thường xuyên trong tất cả mọi cấp lớp của trường học. Vì thế, ngay cả ở nơi trung tâm đô thị như thủ đô Kathmandu người ta vẫn có thể nhìn thấy hàng đàn cò trắng, cò nâu đậu dày đặc theo các bờ sông hay làm tổ trên các cây cổ thụ.
Vùng Lumbini (Lumbini Zone) là phần mở rộng của Đồng bằng sông Hằng với một số con sông nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo là con sông Dầu (Telar Khola) đã được Ngài Huyền Trang mô tả trong hồi ký “Tây Du Ký” (không phải tiểu thuyết Tây Du ký của Ngô Thừa Ân). Vùng Lumbini rộng khoảng 140.000 ha, cao độ từ 95m đến 1200m trên mực nước biển. Khí hậu bán nhiệt đới, với mùa nóng dài hơn mùa lạnh và có bốn mùa: xuân, hè, thu (mưa) và đông. Nhiệt độ vào mùa hè thường trên 30º C có thể lên đến 38-39 và  mùa đông rơi xuống trên dưới 15º C. Mùa mưa từ tháng 6,7, 8 và có thể kéo dài sang cả 9-10. Vào mùa thu thì ngày ấm và đêm lạnh.Tổng diện tích đất do con người sử dụng chiếm đến 68% (cư trú và canh tác). Đồng cỏ chiếm 6% diện tích đất dọc theo bờ sông và trong khu bảo tồn Lumbini, đấy chính là nơi sếu làm tổ và kiếm thức ăn chính. Con sông Dầu chảy xuyên qua khu vực bảo tồn Lumbini và vùng đất ngập nước do nó tạo nên trong khu vực Lumbini được quy hoạch thành khu bảo tồn sếu của Nepal.
Sarus Crane hay sếu đầu đỏ của vùng này cùng một chủng loại với sếu đầu đỏ ở vùng Đồng Tháp Mười của Việt Nam. Đây là loài sếu cao nhất, khi đứng thẳng từ chân lên đến đỉnh đầu vào khoảng 2m, sãi cánh khi dang ra hết cỡ rộng đến 2,5m. Sếu trưởng thành nặng từ 7-10kg, toàn thân phủ một lớp lông xám nhạt, ở đỉnh đầu không lông với da mịn mướt màu xanh ve chai, toàn bộ lông đầu và phần trên của cổ màu đỏ huyết dụ. Chân có màu đỏ nhạt. Chim mái thường nhỏ hơn chim trống chút ít. Chim non có bộ lông tơ vàng ánh trên đầu và thân mình sậm hơn màu nâu quế.
Sếu đầu đỏ là loài chim không thiên di, chỉ di chuyển giữa các vùng thức ăn vào thời gian chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa mưa. Chúng là loài chim thân thiện với con người đến mức gần như không sợ người, kể cả nơi có mật độ dân cư cao như vùng Bắc Ấn. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng điều này vì địa phương này có truyền thống “chung sống hòa bình” giữa các giống loài trải qua vài ngàn năm. Tuổi thọ một con sếu có lẽ lên đến nửa thế kỷ (người ta đã thấy một con sếu được nuôi từ nhỏ với người sống đến hơn 40 năm). Ở Ấn độ và Nepal, sếu được coi là chim thiêng và không bao giờ xâm phạm đến chúng. Chim non thì mừng rỡ chạy đến khi người ta vẫy tay, quấn quýt với người cho chúng ăn như những chú cún con. Và cũng như chó, chúng rất hung dữ với người lạ bước vào ngôi nhà của chủ chúng, (thêm một điều buồn cười là chúng rất ghét chó, hễ bất cứ con chó nào lảng vảng trong sân là nó rượt đuối chạy toé khói).



Một con sếu đang giữ nhà cho một người địa phương sau khi nó gãy cánh và được người này cứu chữa và nuôi dưỡng

Môi trường sống của sếu là những cánh đồng nước ngập theo mùa, đồng cỏ, ruộng lúa, hồ nước. Trái với quan niệm ban đầu của chúng tôi rằng sếu là loài “ăn chay”, trong thực tế sếu ăn khá nhiều loại thức ăn, cỏ, cây thủy sinh, rễ, củ, các loại hạt, động vật không xương sống, côn trùng, động vật nhỏ…
Tôi bắt gặp một điều thú vị ở Lumbini. Theo quy hoạch, chính phủ Nepal lập ra làng Đức Phật (Buddha Nagar) để tái định cư những gia đình sinh sống trong khuôn viên Vườn Lumbini. Ở làng này vào mùa Thu, cứ chiều chiều lại có một con sếu hoang đi đến từng nhà để khất thực. Đến trước mỗi cửa nhà, nó dừng lại gật gật đầu mấy cái như chào chủ nhà rồi đứng đợi người ta cho thức ăn. Nó không khất thực duy nhất một nhà mà mỗi nhà chỉ ăn chút ít rồi sang nhà khác dọc theo một con đường dài chừng 50m. Tôi thường ngồi uống trà sữa khoảng giữa con đường đó để đợi nó. Nó đến rất đúng giờ, tầm 4 giờ chiều mỗi ngày. Tôi lấy bánh bich-quy đưa cho nó. Sếu khéo léo dùng chiếc mỏ dài gắp từng cái bánh trong tay tôi, đặt xuống đất và dùng mỏ bẻ làm hai miếng rồi mới từ tốn ăn từng miếng; sau đó mới gắp cái bánh khác. Lần nào nó cũng chỉ nhận 5 cái bánh quy rồi thôi. Sau khi ăn xong, sếu cúi đầu chào tôi vài cái rồi mới thong thả đi sang nhà kế bên nhận thức ăn. Không ai biết nó từ đâu tới cũng như bao nhiêu tuổi. Làng này mới thành lập trên dưới 15 năm và từ những năm đầu người ta nói là đã thấy con sếu kia về khất thực.



Tác giả đang tặng thức ăn cho một con sếu hoang đi khất thực hàng ngày trong làng Đức Phật ở Lumbini

Sếu thường được coi như biểu tượng của sự chung thủy, người ta tin rằng chúng kết đôi với nhau một lần cho suốt cuộc đời, và nếu một trong hai mất đi, con còn lại sẽ nhịn ăn đến chết.



Điệu luân vũ của những đôi sếu mùa yêu đương (Ảnh minh họa từ Internet)

Vô  cùng trùng hợp, mùa sếu kết đôi và làm tổ  lại rơi vào đúng mùa lễ hội lớn nhất trong năm của Tiểu Lục địa Ấn Độ: Dashain và  Tihar. Mùa lễ hội này quan trọng như Tết Nguyên  Đán của người Việt. 
Khi vào mùa làm tổ, sếu bắt cặp và  biểu diễn những điệu luân vũ kèm theo bản hợp ca ngập tràn hạnh phúc. Tiếng hoan ca của chúng là một tràng những âm thanh phức hợp, hoà điệu lần lượt giữa tiếng chim trống và chim mái. Cứ mỗi tiếng gáy của chim trống thì chim mái gáy theo hai tiếng ngắn. Cả hai vươn người trong một tư thế hoàn mỹ, đầu ưỡn về sau, mỏ há vươn lên bầu trời như muốn gửi thông điệp yêu thương tới toàn vũ trụ. Rồi chim trống vươn xoè cánh lên cao trong khi chim mái thì xếp cánh yểu điệu duyên dáng bọc lấy thân mình để múa “Vũ điệu kết đôi”. Đôi sếu lướt trên cỏ như những vũ công ballet rồi rung lắc thân mình như những vũ nữ múa bụng, rồi cúi chào nhau, rồi bay bỗng lên không trung, rồi nhặt những cọng cỏ ném yêu vào nhau, rồi vỗ cánh hân hoan...kéo dài hàng vài chục phút... Đó là cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú nhất mà tôi từng được chứng kiến, khi có hàng vài chục đôi sếu cùng múa ca trong một buổi hoàng hôn mùa thu.
Vào khoảng tháng chín sếu bắt đầu làm tổ. Tổ chim sếu làm bằng các loại cây cỏ của vùng nước ngập, kể cả lúa. Sau khi chọn nơi làm tổ (các đôi sếu cũ thường làm tổ ở ngay chính cái tổ của năm trước), giữa một vùng ngập nước đến gần đầu gối, cặp sếu bắt đầu dùng mỏ nhổ quang quẽ cỏ, sậy, lúa xung quanh một diện tích 5-6 mét vuông và chất thành một gò nhỏ đường kính khoảng gần 2m. Khi làm tổ, cặp sếu đi theo chiều kim đồng hồ, nhổ và quăng thật chính xác các cây cỏ vào nơi làm tổ. Cứ kết thúc một vòng thì chim trống lại leo lên dẫm cho đống cây cỏ nén xuống thật chặt. Nhìn từ xa tổ sếu giống như một cù lao nhỏ nhô lên khỏi mặt nước 50-60cm trên đỉnh hơi lõm xuống. Sếu làm tổ giữa mặt nước như vậy có lẽ nhờ nước để điều hoà nhiệt độ, mát vào giữa trưa và ấm vào ban đêm. Và cũng có nguyên nhân nữa là để phòng tránh các thiên địch của trứng và chim con như: chồn, cáo, chuột, rắn…








Một đôi sếu bắt đầu làm tổ

Không một nông dân nào phàn nàn khi sếu nhổ trụi một khoảng lúa 4, 5 mét vuông trên ruộng của họ để làm tổ, trái lại còn vui mừng khi thấy sếu chọn ruộng của họ để làm tổ. Theo họ đó là một điềm lành, sếu sẽ mang lại may mắn và no ấm cho gia đình họ trong năm kế tiếp. Vì thế không có chuyện phá tổ sếu hoặc xua đuổi sếu. Điều này ngoài tín ngưỡng cổ xưa của vùng này là tôn kính sếu, còn có một tình yêu thương lẫn nhau giữa sếu và người. Chim mái thường đẻ hai trứng rất cân bằng âm dương, một sẽ là trống và một là mái. Trứng chim được ấp trong vòng 30 đến 35 ngày. Chim trống thường đi vòng quanh để bảo vệ cho tổ trong khi chim mái ấp và ấp thay chim mái khi con này đi ăn. Khi trời nắng chúng dùng mỏ đảo trứng để sức nóng toả đều quả trứng. Trứng chim chiều rộng có đường kính khoảng 10 cm, chiều dài khoảng 13cm đường kính trục, nặng khoảng trên dưới 300g, vỏ màu trắng có vân xám nhạt. Ăn trứng và thịt sếu là điều cấm kỵ (taboo) theo tín ngưỡng dân gian toàn vùng, vì thế không bao giờ có việc bất cứ kẻ nào dám ăn thịt hay trứng của loài chim thiêng này, kể cả vào mùa đói kém nhất.



Tổ chim sếu đầu đỏ hoặc Brolga - sếu Úc châu (Ảnh minh họa từ Internet)

Trong thời gian khảo sát thực địa ở Lumbini, tôi đã tiếp cận với các tổ sếu để quan sát và tìm hiểu kết cấu tổ cũng như cân đo trứng sếu. Khi chúng tôi lội qua cánh đồng ngập nước để đến gần tổ của chúng, đôi sếu tỏ vẻ giận dữ chứ không sợ hãi. Chúng chạy vòng quanh ở khoảnh cách 5-6 m, con chim trống giang rộng đôi cánh lên, mỏ há lớn phát ra những âm thanh chói gắt, chim mái thì ở khoảng cách xa hơn nhưng cũng không kém phần kích động. Khi cân đo trứng sếu tôi đã phải rất cẩn thận dùng bao tay phẫu thuật vì sợ trứng ám hơi người sẽ bị đôi sếu mổ thủng bỏ đi.
Sau khi ấp trên dưới một tháng thì trứng nở. Vỏ trứng sau khi nở sẽ được chim bố mẹ mang đi quẳng thật xa khỏi tổ. Tập tính của sếu là giữ khu vực xung quanh tổ thật sạch, khi có bất kỳ cọng cỏ cây nào trôi gần đến tổ là nhặt quẳng đi thật xa (phòng chống rắn chăng?). Trong vài ngày đầu, chim non được bố mẹ đút thức ăn, khoảng một tuần tuổi chúng đã có thể theo bố mẹ đi kiếm ăn. Khi có nguy hiểm, chim bố mẹ kêu to báo động một cách đặc biệt, các chú chim con liền đứng im bất động cho đến khi bố mẹ đến gần dùng mỏ dụi dụi lên thân mình báo hết nguy hiểm rồi dẫn chúng đi tiếp.
 Kỷ niệm đặc biệt nhất ở Lumbini của tôi là cứu sống một chim sếu con vào mùa thu 2005. Năm ấy mùa mưa kéo dài hơn thường lệ. Tôi làm một cái chòi dã chiến trên bờ ruộng để quan sát tổ của một đôi sếu. Sau một tháng, chỉ có một trứng nở, trứng còn lại bị ung và bị chim bố mỏ bỏ vứt đi. Chim sếu nở được một tuần thì gặp một cơn mưa lớn. Mưa dầm dề từ suốt từ nửa đêm 19, rạng ngày 20/10/2005. Kèm theo là cơn rét cắt da đột ngột, ở Lumbini đang từ 30 độ bỗng rớt xuống chỉ còn trên dưới 20 độ C. Rét kèm với mưa nên càng thấm. Đây không phải là cơn mưa lớn nhất, nhưng là cơn mưa dai nhất và lượng nước nhiều nhất mà tôi từng gặp ở Lumbini (cuối cùng thì sau đúng ba ngày trời mới tạnh hẳn). Ngày đầu tiên đôi sếu bố mẹ đứng chụm vào nhau che cho chú sếu con không đi kiếm ăn như thường lệ. Ngày thứ hai, đôi lúc một con nháo nhác chạy đi một lúc chắc là tìm thức ăn rồi vội vã quay về đổi chỗ. Vào lúc chập choạng tối ngày thứ ba, chúng tôi nghe tiếng sếu kêu thảm thiết vội vàng đội mưa chạy ra. Đôi sếu đang tất tả bỏ đi. Không thấy chú sếu con một tuần tuổi đi theo. Đoán có chuyện chẳng lành tôi và hai người địa phương giúp việc vội chia ra tìm. Người thì chặn mấy người Nepal đi bắt cá lại, xét giỏ đựng cá, kẻ soi đèn pin kiếm trong từng bụi cỏ. Mãi một lúc sau mới thấy chú sếu con nằm gục trong đám cỏ ven bờ ruộng, lông tơ ướt bẹp, người tím ngắt, mắt đã lờ đờ. Chúng tôi vội vã mang vào nhà của một người địa phương gần đó, thấm khô, rồi sưởi ấm chú bằng bóng đèn tròn. Được một lúc chú thở hắt ra rồi ngáp ngáp. “Sống rồi!” May quá. Một lát sau chú bắt đầu kêu khẽ mấy tiếng. Cả đêm ấy bọn chúng tôi thức trắng trông chừng chú.
Nửa đêm, vợ chồng sếu quay về tìm con, kêu thảm thiết. Tờ mờ sáng, chúng đi lảng vảng quanh ổ kêu than nẫu ruột. Trời vẫn mưa và lạnh quá nên chúng tôi không dám trả con cho chúng ngay. Cứ cách nửa giờ một lần chúng tôi bẻ bich-quy thành mẩu nhỏ mớm cho chú sếu con. Mãi đến chiều trời bớt mưa, chúng tôi mới thả chú sếu con về với bố mẹ. Chúng mừng rỡ ríu rít bên nhau rồi dắt nhau đi khuất trong màn mưa lất phất.




Sếu con được sưởi ấm bằng bóng đèn điện đã hồi tỉnh






Tác giả và chú sếu con được cứu sống.


Thu đã về ở Khu Vườn Thiêng Lumbini. Năm nay nắng gắt chen lẫn những cơn mưa lớn kéo dài. Tôi lại tìm về nơi chốn bình an ấy để lại được ngắm điệu luân vũ yêu thương của đàn sếu, để được tặng thức ăn cho con sếu khất thực và hoà nhập tâm hồn vào không gian huyền diệu của một trong những nơi linh thiêng nhất trên Trái Đất nơi đã đón nhận bước chân đầu tiên của Đức Từ Phụ của chúng ta.


Lumbini, Mùa Sếu 2010
Nguyễn Phú

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2010

LỄ VU-LAN NGUYÊN THỦY - PHẦN 1

PHN 1: KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC LỄ VU-LAN Ở KATHMANDU, NEPAL

*********

  Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương tại đây. Một trong những lễ trọng trong năm, hoặc có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu-lan. Lễ Vu-lan của Nepal có gì khác với lễ Vu-lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy?
    Trước tiên chúng ta hãy nhìn lại nguồn gốc của lễ Vu-lan ở Trung quốc.

·                        Nguồn gốc Lễ Vu-lan tại  Trung Quốc 

Phần này chúng tôi không đi sâu vào chi tiết về từ nguyên, lịch sử hoặc  cách thức thực hành nghi lễ. Chỉ điểm qua một số nét chính để có cơ sở so sánh với Lễ Vu-lan tại Nepal.
Có lẽ bị ảnh hưởng từ Phật giáo Trung hoa, Phật giáo của Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng tổ chức lễ Vu-lan gần giống như của Trung Hoa. Nói chung, tất cả các nước trên đây tổ chức lễ Vu-lan dựa theo bài kinh “Phật Thuyết Kinh Vu-lan” do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316 AD). Kinh này nói về sự tích Phật dạy Ngài Mục-Kiền-Liên cứu mẹ bị đọa ở địa ngục. Và tất cả đều thống nhất ở một điểm theo truyền thống Phật giáo: ngày rằm tháng bảy (theo âm lịch Trung Hoa) là ngày Chư Phật hoan hỷ, oai lực chư tăng được tăng trưởng sau ba tháng an cư, và là ngày tự tứ do đó chư tăng hội họp đầy đủ.
 “…Rằm tháng bảy là ngày tự tứ - Mười phương Tăng đều dự lễ này - Phải toan sắm sửa chớ chầy - Thức ăn trăm món, trái cây năm màu - Lại phải sắm gường nằm nệm lót - Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu - Món ăn tinh sạch báu mầu - Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng - Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực - Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng - Lại thêm cha mẹ hiện tiền - Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn - Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ - Dầu ở đâu cũng tựu hội về - Như người thiền định sơn khê - Tránh điều phiền não chăm về thiền na - Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả - Công tu hành nguyện thỏa vô sanh - Hoặc người thọ hạ kinh hành - Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tong - Hoặc người đặng lục thông tấn phát - Và những hàng Duyên giác Thinh văn - Hoặc chư Bồ tát mười phương - Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh - Ðều trì giới rất thanh rất tịnh - Ðạo đức dày chánh định chơn tâm - Tất cả các bậc Thánh phàm - Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa…”  (Phật Thuyết Kinh Vu-lan)
Thật ra, tập tục cúng bái tổ tiên và tẩy trừ ma quỷ vào dịp rằm tháng bảy tại Trung Quốc đã xuất hiện từ rất lâu đời (ít nhất là từ đời Hán). Còn Tết Trung nguyên của Đạo giáo thì cũng có trước thế kỷ thứ VII-AD. Khi Phật giáo lan truyền đến Trung Quốc, có lẽ trùng hợp về thời điểm  và quan niệm báo hiếu nên người Trung Quốc đã hấp thụ lễ Vu-lan của Phật giáo và biến lễ Vu-lan tại Trung Quốc trở thành một lễ dân gian mang tính tổng hòa của: tập tục thờ cúng tổ tiên + Tết Trung nguyên của Đạo giáo + lễ báo hiếu của Phật giáo.
Nội dung Phật giáo có thể thấy qua việc thiết lễ cúng dường chư tăng và cầu nguyện cho người đã khuất. Còn những tập tục như cúng cô hồn, đốt vàng mã là những tập tục còn sót lại của tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Sau này Mật tông Trung Hoa còn soạn ra thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Từ đó có thể thấy Lễ Vu-lan ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc không còn thuần khiết và bị pha trộn bởi nhữngyếu tố văn hoá địa phương.
Việc tìm hiểu nguồn gốc lễ Vu-lan tốt nhất nên khảo sát tại quê hương bản quán của nó tức địa bàn Bắc Ấn. Tuy nhiên Phật giáo tại vùng Bắc Ấn đã tàn lụi hơn 1000 năm trước, những lễ tiết Phật giáo cũng đã nhạt nhòa theo thời gian.
May mắn thay cho chúng tôi, một địa điểm tại Nepal vẫn còn bảo lưu được lễ Vu-lan nguyên thủy: Thung Lũng Kathmandu.


·                        GŪLA- tháng lễ trọng của cộng đồng Newari

    GŪLA là một lễ hội đặc biệt của Nepal và chỉ duy nhất có ở Thung Lũng Kathmandu (Kathmandu Valley) – đây chính là nước Nepal cổ đại với tên gọi Nepal-Mandala vào thời Asoka Đại Đế.
Xin nói qua một chút về lịch sử của Kathmandu Valley.
Về địa lý, Kathmandu Valley nằm cách Kapilavastu của Vương quốc Sakya 400km. Thung lũng này nằm trên độ cao hơn 2000m trên mực nước biển và được bao bọc bởi những ngọn núi cao. Đặc điểm này đã làm nên cái tên cổ đại nổi tiếng của thung lũng vì những ngọn núi bao bọc xung quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình Mandala. Theo huyền sử, Kathmandu chính là một cái hồ lớn vào thời tiền sử (các khảo cứu địa chất mới nhất tại đây đã chứng minh điều này). Những sườn núi xung quanh hồ lớn ấy là nơi cư trú của sắc dân Naga – nhóm chủng tộc Mongoloid của Hymalaya mà địa bàn cư trú kéo dài đến tận Trường Sơn của Việt Nam. Cũng theo huyền sử, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát đã tìm đến đây để chiêm bái Swayambhu (Ánh-Sáng-Tự -Sinh từ một hoa sen do Đức Phật Bipaswi gieo trồng). Ngài Văn Thù đã dùng báu kiếm của mình cắt một lối thoát nước và biến cái hồ ấy trở thành Thung Lũng Kathmandu, còn hòn đảo giữa hồ trở thành ngọn đồi Swayambhu ngày nay. Sắc dân Naga sống gần đấy đã quy tụ lại dưới sự lãnh đạo của một đệ tử của Ngài Văn Thù, sau này được ghi nhận trong sách sử cổ đại của Ấn Độ là Kirat hay Kiran. Bộ tộc Kiran đã từng tham chiến và giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc chiến tranh của liên minh các vương quốc Ấn Độ chống đạo quân viễn chinh của Alexander. Sau này trong công cuộc thống nhất Ấn Độ của Chandragupta (ông nội của Asoka Đại Đế), họ trở thành một đồng minh tin cậy của ông trong việc kiến tạo Đế quốc Maurya. Chính Asoka, sau khi hành hương chiêm bái tất cả các thánh tích Phật giáo của Ấn Độ đã đi đến Nepal-Mandala vào năm 250 trước Công Nguyên. Ở bốn góc của thành phố cổ Patan (trung tâm quyền lực của Nepal cổ đại) còn tồn tại bốn bảo tháp lớn được truyền tụng rằng chúng đã được dựng nên bởi chính Asoka khi ông đến thăm Nepal-Mandala. Một huyền sử nữa là Asoka đã gả con gái của ông là công chúa Charumati cho một hoàng thân trong triều đình Kiran.

Bảo tháp Swayambhu mùa Gula
nhìn từ cửa sổ phòng tác giả


Về truyền thống Phật giáo, có lẽ Phật giáo đã du nhập vào Nepal-Mandala từ thời Đức Phật. Huyền sử cũng nói rằng chính Đức Phật Thích Ca đã viếng thăm một vương tử Sakya tại Nepal-Mandala trước khi Ngài nhập Niết bàn, và sau này Ngài A Nan cũng nhiều lần đến Nepal-Mandala thăm viếng và truyền đạo cho các quý tộc Sakya lưu lạc đến đây sau khi vương quốc Sakya ở Kapilavastu bị tận diệt. Nagarjuna (Long Thọ), Buddhaghosa (Phật âm), Atisa đều đã đến thăm viếng Thung lũng Kathmandu và Swayambhu. Vì thế Phật giáo tại Kathmandu Valley có một truyền thống sâu xa và vững chắc, kéo dài không ngưng nghỉ suốt từ thời Đức Phật còn tại thế cho đến nay. Cho đến cuối thế kỷ 19, những nhà khoa học Anh đã ghi nhận rằng có đến 80% dân số của Kathmandu Valley theo đạo Phật. Chỉ từ sau khi có luật chống lại Phật giáo vào thời Rana những năm 1910-1930 và những hành động quá khích của chính quyền để thiết lập một vương quốc thuần Hindu thì số lượng người theo đạo Phật bị giảm sút nghiêm trọng. Chỉ còn trên dưới 20% vào thời điểm hiện nay. Mặc dù vậy, hầu hết những gia đình đã “cải giáo” sang Hindu đều giữ những tập tục Phật giáo của mình. Và điều quan trọng hơn, cộng đồng “thuần khiết Phật giáo” Sakya vẫn giữ nguồn mạch Phật giáo chảy mãi tại Kathmandu Valley.




Phật tử Tây Phương cũng về chiêm bái Swayambhu mùa Gula


Đối với Phật tử của Kathmandu Valley, sự kiện quan trọng nhất trong năm là thực hiện một tháng lễ trọng GŪLA.

GŪLA là tên của tháng thứ 10 trong lịch Newari (Nepal Era Calendar) - một nguyệt lịch được sử dụng từ năm 880 AD tại Kathmandu Valley. GŪLA là một từ Newari cổ (Newari là ngôn ngữ của cư dân bản địa ở Thung Lũng Kathmandu có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bhrami được sử dụng rộng rãi vào thời Asoka). GŪLA cấu thành từ “gun” -điềm lành và “la”- một khoảng thời gian (trong trường hợp này là một tháng).  Chính vì vậy, GŪLA có nghĩa “tháng tốt lành”. Theo lịch Ấn Độ, GŪLA bắt đầu từ ngày thứ nhất của tuần trăng Srawan và chấm dứt vào ngày đầu tiên của tháng Bhada (Tám-Chín). Theo dương lịch, tháng GŪLA thường rơi vào khoảng giữa tháng Tám đến giữa tháng Chín, và hoàn toàn trùng khớp với tháng Bảy âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc.
Vào tháng GŪLA, sau khi lúa đã cấy xong, Phật tử Newari bước vào tháng lễ quan trọng nhất trong năm của họ. Dễ quan sát hơn cả là việc họ chiêm bái ngọn đồi Swayambhu-Thánh địa Phật giáo quan trọng nhất của Thung Lũng Kathmandu.



Phật tử Newar kinh hành vòng quanh bảo tháp Swayambhu

Suốt cả tháng GŪLA, Phật tử Newari cầu nguyện, chay tịnh, thiền quán và chơi âm nhạc tôn giáo. Trong tháng GŪLA, họ không ăn thịt gà và trứng. Từ rất sớm (4-5 giờ sáng) họ đi bộ (đa số đi chân trần) thành từng nhóm đến Swayambhu cùng với những ban nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm để thực hiện những buổi lễ đặc biệt bất kể thời tiết thế nào. Nhạc cụ chính của bất cứ ban nhạc nào là Dhah (trống 3 tấc, một nhạc cụ cổ truyền tồn tại hơn 2,000 năm nay ở Thung lũng Kathmandu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy chứng tích của nó từ thời Kiran- Asoka Đại Đế). Những chàng trai, cô gái Newar đeo những cái trống cổ truyển này trên cổ và vỗ bằng tay trái còn tay phải gõ bằng một cái dùi đặc biệt đầu cuốn tròn như dấu “?”. Nhóm nhạc công tài tử này còn có những người thổi kèn và chơi những cái chập chõa nhỏ như chén ăn cơm.



Nhạc cổ truyền được các thế hệ chơi trong mùa Vu-lan



Vào tháng GŪLA,  Swayambhu đông nghịt người chiêm bái đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Không chỉ Phật tử mà cả người theo đạo Hindu (hoặc Phật giáo cải sang Hindu) cũng đi đến Swayambhu để tỏ lòng kính ngưỡng Đức Phật. Họ trèo lên 365 bậc đá của ngọn đồi, vượt qua những khu rừng thưa, những tượng đá của các linh vật, những pho tượng Phật cổ bằng đá to ngoại cỡ, và những con khỉ ngồi dọc theo đường đi để chờ thức ăn… để lên tới đỉnh đồi. Người người chen chúc nhau trong không gian chật hẹp và càng chật hẹp hơn bởi đèn dầu, cờ phướn, tượng phật và tranh cuộn thanka trang hoàng các tự viện và bàn thờ, bởi mùi nhang trầm hoà quyện cùng tiếng chuông và tiếng lăn của những bánh xe cầu nguyện đặt vòng quanh bảo tháp. Đây đó, những nhóm tăng ni ngồi tụng thật lớn những bộ kinh Phật cho mọi người cùng nghe, trong khi những nhóm nhạc tài tử thì tụ tập bên cạnh những tháp đá và chơi những bản nhạc cổ truyền hoặc hát lời ngợi ca chư Phật. Theo truyền tụng, việc chiêm bái này trong tháng GŪLA đã được thực hiện ở Thung Lũng Kathmandu nhiều thế kỷ , có lẽ từ 2,500 năm trước. Nghi thức này lặp lại mỗi ngày trong suốt tháng GŪLA. Mỗi ngày tiếp theo, số lượng các nhóm nhạc và người cầu nguyện ngày càng đông khi những người ở xa xôi hơn cũng tề tựu về.
Tại Patan (thành phố cổ nhất của Thung Lũng Kathmandu, nơi được mệnh danh là Thành phố Phật giáo), trong khi mưa thoả cơn khát của đất đai và vạn vật, Phật tử nhắc nhở nhau nhớ lại những lời Phật dạy. Phật tử Newari ở đây thực hiện một tháng lễ trọng bằng cách tỏ lòng tôn kính Đức Phật, nhắc nhở nhau cố gắng thực hiện ngũ giới trong cuộc sống hàng ngày, tối thiểu là một tháng.   



Vaijracharya – giai cấp tư tế Phật giáo của người Newar - tụng kinh mùa Gula



Những nữ Phật tử tắm gội sạch sẽ và chỉ ăn một bữa mỗi ngày trong suốt tháng GŪLA. Mỗi ngày, trước khi nấu nướng thức ăn trong ngày, những người phụ nữ nắn những cái tháp nhỏ bằng đất sét (caitya) và cầu nguyện trước chúng với lòng tin rằng hành động đó sẽ tích lũy công đức cho họ và gia đình. Những cái tháp nhỏ đó được cầu nguyện và giữ cẩn thận cho đến ngày cuối cùng của tháng GŪLA. Vào ngày cuối cùng của tháng GŪLA, những người phụ nữ thực hiện một nghi lễ đặc biệt: mặc những bộ trang phục đẹp nhất mà họ có cùng với nữ trang đắt tiền họ bưng những cái tháp nhỏ trong một cái khay bạc hoặc đồng theo sau những nhóm nhạc cổ truyền đi tới một dòng sông gần nhà. Ở đây họ thực hiện nghi lễ cuối cùng trước các Caitya rồi đặt chúng xuống nước. Kết thúc mùa GŪLA, số caitya có thể lên đến hơn trăm ngàn cái.





Các caitya bằng đất sét được nắn bằng tay và cúng bái suốt mùa Vu-lan




Phật tử Newar tụng kinh tại Golden Temple – Patan



Vào ngày thứ tám tháng GŪLA, Phật tử ở Patan thực hiện lễ “Pancha Dana” - Lễ dâng cúng năm thứ vật thực (gạo lức, gạo trắng, đậu, lúa mì và muối).  Đó chính là lễ cúng dường cho các chư tăng ni theo nghi thức cổ truyền. Huyền thoại truyền rằng đó chính là ngày khi Siddhartha từ bỏ lối tu khổ hạnh để chọn con đường Trung Đạo và sau đó chứng ngộ thành Phật. Trong ngày Pancha Dana, các cửa hiệu và nhà cửa trang hoàng với hoa và các tranh tượng Phật. Phụ nữ ngồi trước cửa nhà với những cái bồn bằngđồng chứa đầy 5 thứ dâng cúng (nguồn gốc của Vu-lan bồn), và dâng mỗi lần đầy hai tay vào bình bát của các tăng ni đi ngang qua theo phong tục được chính Đức Phật thực hành hơn 2500 năm trước. Các tăng ni ban phước cho mỗi thí chủ bằng cách chạm vào trán của họ bằng những cuốn kinh Phật, cầu chúc cho họ nhận được phước duyên và sự bảo hộ của chư Phật. Khi trời chạng vạng tối, một nhà sư đi vòng quanh thành phố và lắc một cái chuông báo hiệu kết thúc ngày Pancha Dana, khi đó các tăng ni không nhận thêm lễ vật dâng cúng nữa. Sau đó, vào ngày thứ 28 của tháng GŪLA, Pancha Dana lại đươc tổ chức ở hai thành phố khác của Thung Lũng Kathmandu là Kathmandu và Bhaktapur.


Vào ngày Pancha Dhana, các sư, ni hoặc thành viên của họ Sakya, Vajracharya thực hành nghi thức khất thực theo truyền thống của Đức Phật. Phụ nữ của những gia đình Phật tử ngồi trước cửa nhà với một hoặc nhiều “bồn” chứa đầy gạo, muối, tiền xu, các loại đậu để cúng dường cho họ.


Hai Vajracharya đang đi khất thực


Một cửa tiệm ở khu trung tâm buôn bán sầm uất Ason trang hoàng đẹp đẽ với tượng Phật 
và đích thân bà chủ đứng cúng dường suốt cả ngày.



Một nữ Phật tử trong ngày Pancha Dhana, 
đến 3 giờ chiều thì hầu hết các vật thực cúng dường đã cạn.



Một bô lão Sakya trong trang phục cổ truyền 
đang nhận vật thực cúng dường từ Phật tử.




Bahi Doe Boyegu, sự trưng bày các tượng Phật trong sân chùa rơi vào ngày thứ 12, và có thể kéo dài vài ngày, tuỳ thuộc vào quyết định của cộng đồng Sakya của tự viện đó. Trong ngày này, những thánh tích và tượng cổ được trưng bày cho công chúng chiêm bái và cầu nguyện. Đó là những tượng gỗ tuổi đời vài thế kỷ, có tượng đã bị mối mọt làm hư hại. Đó là những bức tranh cuộn thanka, và những tấm thảm treo tường cổ thể hiện cuộc đời đức Phật hoặc các Thánh Tăng, đó còn là những hạt gạo ngoại cỡ được nói rằng đã được trồng ở Thung Lũng Kathmandu vào thời cổ đại. Mỗi ngày có đến hàng trăm người đến chiêm bái ở mỗi tự viện. Tại một ngôi chùa ở Thamel những cuốn kinh cổ hơn ngàn năm tuổi được viết bằng mực hoàng kim được trưng bày một lần duy nhất trong năm cũng vào dịp này.
Tượng Phật trưng bày tại Golden Temple

Kinh cổ được trưng bày mùa Gula

Vào ngày rằm, Phật tử tựu tập tại các Bảo tháp Asoka ở Patan để cầu nguyện.
Vào ngày thứ 17, diễn ra Mata-Ya , Lễ Đèn  (xin xem Phần 2). Tên đầy đủ của ngày lễ này là Mata Puja, với mata là đèn và puja là nghi lễ cúng bái Thần - Phật. Vào ngày ấy, mọi người bưng những cây đèn dầu đi không mệt mỏi vòng quanh khắp các đường lớn, hẻm nhỏ của Patan để cầu nguyện cho những người thân đã chết. Họ đi chân trần mặc những bộ đồ đẹp nhất và tụng đọc những bài ngợi ca Chư Phật, Đi đầu luôn luôn là những nhóm nhạc cổ truyền.
 Bắt đầu từ mờ sáng, những đoàn người kéo đi xuyên qua mê cung của các con đường nhỏ hẹp và hẻm hóc của thành phố cổ Patan, rắc gạo, tiền xu và bột đỏ lên tất cả các khám thờ tượng, tháp, chùa, đền dọc theo đường đi. Họ đi càng nhanh khi trời đã đến giữa trưa, và quan niệm rằng càng khổ nhọc bao nhiêu thì người thân đã khuất của họ sẽ bớt đau khổ chừng ấy. Họ rắc những đồng xu trên đường đi trong khi gọi tên người thân đã khuất, trong những người khác hát vang những bài ca ngợi ca sự chiến thắng của Đức Phật trước ma vương Mara. Đến quá trưa thì hầu hết mọi người gần như kiệt sức, bột đỏ chảy dài trên thân thể thành những dòng mồ hôi đỏ, bám đầy cả trên tóc, trên quần áo. Nhưng họ vẫn không dừng lại. Một số thanh niên và đàn ông của những gia đình có người thân chết trong vòng một năm qua cởi trần và quỳ lạy trong đất bụi trước mỗi khám thờ dọc đường. Jyapu, cộng đồng nông dân bản địa của Thung Lũng Kathmandu, tin chắc rằng Lễ Đèn là để tưởng niệm người thân đã khuất của họ.




Chúng tôi nghĩ rằng GŪLA chính là từ nguyên của Vu-lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu-lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Phật hoặc chư tăng, ni trong ngày Pancha Dana.






Một số “bồn” dùng trong mùa Vu-lan của người Newari: GULPA, và GULU dùng đựng các vật thực cúng dường Chư Phật (bình bát bằng đồng)







Bồn KAMALA (trên) và khay SULIN (bên dưới)


Một điều thú vị là từ Kathmandu Valley cho đến Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thì ở đâu tinh thần kính ngưỡng Chư Phật-Chư Tăng và báo hiếu cũng là trọng tâm của lễ Vu-lan.


                                           Kathmandu-Nepal, Mùa GŪLA – Vu-lan 2010

                                                       NGUYỄN PHÚ
(Bài viết này có tham khảo tư liệu từ tác giả Đồng Thành, Mary Slusser và văn bản cổ của cộng đồng Newar)

LỄ VU-LAN NGUYÊN THỦY - PHẦN 2


PHN 2:  MATA YA - LỄ ĐÈN MÙA VU LAN
CỦA CỘNG ĐỒNG NEWARI



 ****************

 


   Tôi đến Patan vào lúc 4 giờ sáng 26/8/2010. Trời mưa ngâu lất phất.  
   Patan là thành phố cổ nhất của Kathmandu Valley, nơi đây cũng là thành phố có nhiều gia đình theo Phật giáo nhất ở Nepal, nên được mệnh danh là Thành Phố Phật Giáo (gọi là “thành phố” (city) nhưng thực ra diện tích của Patan chỉ xấp xỉ một phường lớn ở Saigon ). Tương truyền, vào thời cổ đại, thành phố này được quy hoạch theo hình Bánh Xe Pháp – Dharma Chakra với 8 cổng ra vào. Lễ đèn Mata Ya được bắt đầu từ MAHABUDDHA TEMPLE. Đây là một ngôi tháp được xây dựng ở trung tâm khu phố cổ theo hình thức là một bản sao thu nhỏ của Tháp Đại Giác ở Bodgaya -Ấn Độ. Tháp được ốp toàn bộ mặt ngoài bằng gạch nung màu đỏ, mỗi viên gạch có chạm hình một vị Phật đủ các kích cỡ, số lượng lên đến hơn vạn hình Phật. Nguồn gốc của Tháp này là do một người hành hương Sakya sau khi chiêm bái Tháp Đại Giác ở Ấn Độ đã phát tâm cúng dường xây dựng từ hơn ngàn năm trước.  





5 giờ sáng cuộc lễ bắt đầu. Một cô gái Sakya với trang phục cổ truyền tay cầm nến, hông đeo một cái túi nhỏ đựng gạo chéo qua vai trái dùng để cúng dường các bảo tháp, bắp chân đeo lục lạc đồng, đi chân trần bắt đầu kinh hành.

  
  



Hậu duệ của người Kirat trong trang phục cổ truyền dự lễ đèn







Tất cả các tháp (Caitya) và các chỗ thờ Phật đều được thắp đèn để mọi người chiêm bái và cúng dường









Đèn trên tay, Phật tử đi kinh hành vòng quanh tất cả các tháp lớn, tháp nhỏ, điện thờ Phật. Cho đến sau bảo tháp thứ 100 thì tôi không thể nhớ nữa, chân mải miết bước theo đoàn người, mắt căng ra trong ánh sáng lờ mờ để quan sát đường đi trơn trượt, gập gềnh và những khung cửa thấp lè tè trên dưới 1,5m. 



Có khi đi xuyên qua cả những ngôi nhà, những hẻm hóc chật hẹp để đến được những Caitya xưa cổ giờ bị nhà cửa xây dựng bao quanh…





Các em hứơng đạo sinh cũng đến tham gia giữ trật tự cho buổi lễ.





Nhịp kinh hành càng lúc càng nhanh…








Ba cô gái Newar tham gia lễ đèn trong trang phục cổ truyền: tóc thắt bím, cổ đeo dây chuyền bạc và xâu chuỗi san hô đỏ, cổ chân đeo kiềng bạc, tay mang KAMALA (bồn đựng vật thực cúng dường). Từ trái qua: Sakya, Jyapu (cư dân cổ của Kathmandu làm nghề nông) và Shrestha (đây là hậu duệ của vương tộc Kolya – bên mẹ của Đức Phật Sakya; họ đã di cư đến Kathmandu cùng với Sakya của Kapilavastu và chuyển đổi họ sang Shrestha nghĩa là Ưu tú)




Nhạc cổ truyền là món không thể thiếu trong bất cứ lễ hội nào của người Newar.



Một số thanh niên hoá trang thành các quỷ ma đói khát của cõi âm chòng ghẹo mọi người làm không khí buổi lễ thêm phần náo nhiệt.


Trời sáng dần và người tham gia càng đông, ken cứng các con đường nhỏ hẹp của khu phố cổ




Vượt qua cả những con đường lầy lội thế này để kinh hành…

    

Một thanh niên Newar thực hành nghi thức lễ bái ở tất cả các tháp lớn nhỏ để cầu phúc cho người mẹ đã khuất. Đến trước mỗi Caitya anh dừng lại chắp tay cầu nguyện và niệm một câu chú, rồi lấy một nhúm gạo từ chiếc túi bên hông rắc lên tháp. Sau đó anh từ từ quỳ xuống lạy bảo tháp, toàn thân áp sát xuống đất bất kể nơi đó thế nào, trán dập vào nền đất lầy bùn. Người phát nguyện lạy bảo tháp trong ngày Lễ Đèn phải không bỏ sót bất kỳ Caitya nào và  càng thành tâm bao nhiêu thì thân nhân của họ càng được trợ duyên bên cõi âm để thoát cảnh địa ngục.



Giấy in lời cầu nguyện cho người đã khuất và hình ảnh của họ được thân nhân đặt lên các các khay trước mỗi Caitya (xưa kia các tờ giấy này viết tay). Người tham gia Lễ Đèn cúng dường cho họ bằng cách rắc gạo, kẹo bánh hoặc tiền xu vào đó.



Thầy Sato, Trụ trì chùa Nhật Bản ở Lumbini cũng tham gia Lễ Đèn

Vòng kinh hành kết thúc ở Tháp Asoka (Tháp Bắc, một trong bốn Tháp Asoka ở Patan). Tôi ước tính một vòng kinh hành người tham gia có dịp chiêm bái hơn 300 chùa, đền và tháp, vượt qua quãng đường chừng 2 cây số trong vòng hai giờ đồng hồ không được dừng chân. Trời mưa ngâu cũngcó mặt tốt là làm cho người tham gia kinh hành không cảm thấy nóng bức. Từ đây Phật tử có thể lập lại không ngừng các vòng kinh hành theo ứơc nguyện (càng nhiều lần càng tốt).



 
   Tôi cũng cầu nguyện cho cha mẹ đã khuất của tôi mỗi khi đến một Caitya; chỉ tiếc mình không có duyên (nghi thức này chỉ dành cho người có người thân vừa mất trong vòng một năm mà thôi) và sức khỏe để thực hành nghi thức bái lạy mỗi Caitya như anh thanh niên hiếu kính Newar nọ. Trời sáng rõ và tôi sực tỉnh khỏi cơn mơ trong đó tôi thấy mình dường như đi ngược thời gian trở về nhiều thế kỷ trước để tham gia vào một buổi lễ cổ kính của Vulan nguyên thủy.




                                         NGUYỄN PHÚ  -MÙA GŪLA 2010 – Patan -Kathmandu